Trang Đầu | Mục Lục | << Bài 3 | Bài 5 >> | Hướng Dẫn

Bài 4

Chuyến đi Bảo Lộc (Thị trấn B’lao)

 

 

http://t0.gstatic.com/images?q=tbn:ANd9GcS-KEy_9PnyBITY7q1MbThweLLhkFEZMB-zTc9o2rG5kGpEmbzYzQ

 

 

         Tháng 3- 1984 tôi cầu nguyện xin Chúa cho tôi đi Bảo Lộc để tìm một công việc sinh sống, “Lạy Chúa, xin Ngài thương xót gia đình chúng con.  Đã từ lâu con không có cơ hội đi xa vì hoàn cảnh con Chúa biết rõ.  Con muốn đi vào B’lao thăm người bạn thân, và tìm kiếm một việc làm.  Ở đây, con thất nghiệp buồn lắm Chúa ôi! Xin Ngài cho con một dấu hiệu rõ ràng nếu Ngài bằng lòng cho con đi. Con cảm ơn Ngài!”

        Thế rồi, khoảng một tuần sau tôi nhận được thư của người bạn mà tôi dự định đi thăm.  Đài và tôi đã sống cách xa nhau hơn tám năm.  Hôm nay, đột ngột lại viết thư về cho tôi.  Thật lạ lùng và thú vị! Tôi đọc đi, đọc lại nhiều lần cho Phượng nghe.  Trong thư Đài bảo tôi vào thăm chơi và nghiên cứu công việc sinh sống.  Cậu ta cho biết cuộc sống của cậu đã ổn định và muốn tôi vào để được sống gần nhau.  Chúng tôi là đôi bạn thân thiết thuở còn trung học tại quê nhà, rồi tiếp tục cùng trọ chung nhà với nhau trong những năm tháng ở đại học  Sài Gòn. 

 

       Vậy là tôi có dấu hiệu của Chúa bằng lòng cho đi, nhưng tiền để đi chưa có.  Tôi lại tiếp tục cầu xin Chúa.  Thật lạ lùng mấy hôm sau, bà ngoại của cháu đem lên cho số tiền vừa đủ mua vé xe đò.  Từ Đà Nẵng đến Nha Trang đoạn đường dài khoảng 500 cây số.  Rồi từ đó phải sang xe đi Bảo Lộc hãy còn xa lắm!  Cho nên, tôi cầu xin Chúa cho tôi mua được cái vé tốt nhất, nghĩa là được ngồi cạnh tài xế hay ít ra những ghế ở băng đầu.  Thế nhưng, cầm cái vé trên tay tôi tuyệt vọng vì đó là cái vé ngồi ở băng sau chót. Trên đường về nhà tôi tự nhủ, “Uả, sao mình đã cầu nguyện rồi mà Chúa lại cho cái vé hạt bét này?” Tôi buồn lắm, nhưng không dám nói với nhà tôi.

 

        Sáng hôm sau, khi lên bến xe và bước lên chỗ ngồi của mình, tôi mới biết rằng chẳng có ai mua vé ở hàng ghế đó.  Vì vậy tôi có quyền nằm xuống thoải mái, vắt chân, rung đùi và mỉm cười…  Bây giờ, tôi mới khám phá được điều kỳ diệu: Đức Chúa Trời biết hết mọi sự. Ngài chăm lo từng việc nhỏ nhặt một cách chu đáo hơn những gì tôi mong đợi.

 

        Đến Bảo Lộc trời đã tối, tôi không biết tìm điạ chỉ của bạn mình ở đâu.  Trong thư bạn tôi dặn dò:

 

      - Xuống xe xong, mày hỏi nhà Đài làm ở phòng giáo dục, có vợ tên là Vân bán mỹ phẩm ở chợ Bảo Lộc, người ta sẽ chỉ cho.

 

        Thế nhưng, trời đã tối, phòng giáo dục đã đóng cửa, chợ cũng đã tan!  Thời tiết cao nguyên lạnh lắm về đêm.  Mưa rả rích làm cho bộ áo quần ẩm ướt.  Bụng cồn cào vì đói. Người tôi mệt nhoài sau hai ngày đường vất vả.  Thẫn thờ trong một lúc, tôi chẳng biết tính làm sao.  Nhớ đến Chúa, tôi bèn nhắm mắt lại để cầu xin, “Lạy Chúa, xin Ngài chỉ đường cho con.  Con thèm một bữa cơm tối, một giấc ngủ thật ngon.” Tôi lại tiếp tục bách bộ và rẽ vào một con đường đất đỏ khá rộng.  Đến cuối đường, tôi dừng lại hỏi thăm một người đàn bà:

 

     -  Thưa bác, bác có biết nhà anh Đài làm ở phòng giáo dục, có vợ là cô Vân bán mỹ phẩm không ạ?

 

     -  Ngay cái cổng cậu đứng đấy!  Người đàn bà nhã nhặn trả lời.  Bà gọi giúp:

 

     - Cậu Đài ơi!  Có ai hỏi thăm này.  Bà nhìn tôi một lần nữa mìm cười phúc hậu.  Tôi cảm ơn bà rồi bước vào cổng ngõ.

 

Đài luýnh quýnh chạy ra ôm lấy tôi, miệng bi bô:

 

     -  Thằng bạn tội nghiệp của tôi ôi! Ứớt hết rồi!  Làm sao mày tìm ra nhà giỏi vậy?

          Tôi thong thả kể cho Đài nghe về những điều lạ lùng mà Chúa đã ban cho.  Hai chúng tôi gặp lại nhau sau trong niềm sung sướng. Đêm ấy, chúng tôi kể cho nhau nghe những biến cố xảy ra từ những ngày sau 1975 với bao nhiêu thay đổi.  Chúng tôi ôn lại quá khứ, điểm lại trong số bạn bè đứa nào còn đứa nào mất, hay lưu lạc phương trời nào?

 

        Thời tiết cao nguyên thật tuyệt.  Cái lạnh dễ thương và chúng tôi ngủ lúc nào không biết.

 

                                         http://t0.gstatic.com/images?q=tbn:ANd9GcQ0RTIpA2j-JUUz0H7KxVaQB9HVPGQQcvGMXhtJDJoYVDWfIlz9uA

 

 

         Chơi với Đài khoảng mười ngày, tôi lại muốn trở về Đà Nẵng.  Tôi cảm thấy vui mừng và biết ơn Chúa vì được gặp lại bạn mình sau những nhớ nhung và mong đợi.  Còn công việc làm ăn thì không dễ dàng kiếm một việc thích hợp.  Vả lại, cuộc sống anh em chúng tôi bây giờ đã đổi khác.  Đứa nào cũng đã có cái tổ ấm của riêng mình. Dầu thương mến nhau nhưng xung quanh còn bao nhiêu bổn phận.  Sự hồn nhiên, vô tư đã thuộc về quá khứ của những ngày cắp sách.  Tôi không muốn làm nhọc bạn, nên quyết định trở về Đà Nẵng.

 

        Chuyến xe sáng rời bến khi trời B’lao còn đầy sương.  Đài và tôi ôm nhau thêm một lần nữa.  Đài cho tôi chiếc áo lạnh da màu vàng.  Tôi cho Đài cái mũ lưỡi trai để nhớ tưởng đến nhau.  Xe chạy một quãng, Đài vẫn còn đứng đó nhìn theo.

 

        Trên đường về, tôi mãi mê nhìn ngắm những đồi chè trải dài như con sông uốn khúc một màu xanh bất tận.  Những người phụ nữ da sậm đen với cái gùi đằng sau lưng và đứa con nhỏ trước bụng.  Cuộc đời của họ có lẽ là một tương lai mịt mùng vô vọng. Họ gùi củi gạo, mắm muối, dầu chè và cất giấu nỗi niềm riêng.  Đôi mắt họ sâu hoắm có vẻ mệt mỏi; lê những bước chân nặng nề trên con đường bụi đỏ.   Tôi thầm tạ ơn Chúa vì tôi đã bắt đầu có sự bình yên trong lòng và tin rằng Đức Giê-hô-va đang bước đi cùng mình.  Tôi cũng thầm cầu nguyện cho những người phụ nữ đáng thương kia một ngày được gặp Chúa, để nhận được sự cứu rỗi và yêu thương.  Những cái gùi trĩu nặng ấy Chúa sẽ gánh thay cho.

 

“Hỡi những kẻ mệt mỏi và gánh nặng, hãy đến cùng ta, ta sẽ cho các ngươi được yên nghỉ.  Ta có lòng nhu mì, khiêm nhường; nên hãy gánh lấy ách của ta, và học theo ta; thì linh hồn các ngươi sẽ được yên nghỉ.  Vì ách ta dễ chịu và gánh ta nhẹ nhàng.”

                                       (Mathiơ 11: 28-30)