Trang Đầu | Mục Lục | << Chương 68 | Chương 70 >> | Hướng Dẫn
Thơ II Phi-e-rơ
Nói tiên tri về sự bội đạo
Tác giả. Thơ
tín nầy đặc biệt tự chứng tỏ là tác phẩm của Si-môn Phi-e-rơ (1:1). Tác giả tự
nhận là đã chứng kiến sự Hóa hình của Ðấng Christ (1:16-18), và đã được Ðấng
Christ bảo cho biết mình sắp qua đời (1:14). Ấy nghĩa là thơ tín nầy thật là
tác phẩm của Phi-e-rơ, hoặc của một người nào tự nhận là Phi-e-rơ. Dầu thơ tín
nầy chậm được nhận vào kinh điển Tân Ước (xem lời chú giải về "Kinh điển Tân
Ước" ở dưới mục: "Chúng ta nhận được Kinh Thánh thể nào" trong
sách nầy), nhưng Hội Thánh đầu tiên đã thừa nhận nó thật là tác phẩm của
Phi-e-rơ, và trải qua các thế kỷ, nó đã được tôn kính như là một thành phần của
Kinh Thánh. Một vài nhà phê bình kim thời cho đó là một tác phẩm về cuối thế kỷ
thứ 2, chừng 100 năm sau khi Phi-e-rơ qua đời, và do cây viết của một kẻ ta
không biết, đã giấu tên và đội danh Phi-e-rơ. Ðối với trí óc trung bình, thì
đội tên như vậy là giả mạo, là vi phạm luật dân sự, luật đạo đức và không đúng
đắn. Tuy nhiên, các nhà phê bình vẫn quả quyết rằng mạo danh người khác như vậy
không có gì là trái luân lý cả.
Thơ tín nầy gởi cho ai? Khác với phần nhiều thơ tín, thơ nầy không ghi địa
phương nào. Tuy nhiên, đây là "thơ thứ hai" của Phi-e-rơ gởi cho cùng
một nhóm người (3:1). Dầu có lẽ Phi-e-rơ còn viết nhiều thơ tín khác nay đã
thất lạc, song ta đoán mấy chữ "thơ thứ hai" nầy ám chỉ rằng có tác
phẩm gọi là "thơ thứ nhứt" của ông gởi cho các chi hội ở Tiểu-Á-tế-á
(I Phi-e-rơ 1:1). Phao-lô cũng đã gởi thơ tín cho các chi hội nầy (II Phi-e-rơ
3:15).
Niên hiệu. Nếu thơ I Phi-e-rơ viết đang khi Néron bắt bớ Hội
Thánh và nếu Phi-e-rơ tuận đạo trong cơn bắt bớ ấy (xem lời chú giải giới thiệu
thơ I Phi-e-rơ) thì thơ tín nầy chắc đã viết trước khi ông qua đời ít lâu, có
lẽ khoảng năm 67 T.C..
Mục đích. Ðể cảnh cáo về sự bội đạo hầu đến, là lúc các thủ
lãnh Hội Thánh, vì ham thích tiền bạc, sẽ cho phép phóng túng và làm bậy toàn
thể; trong tình trạng bội đạo nầy, Hội Thánh sẽ không trông đợi sự tái lâm của
Chúa nữa. Và để ngụ ý nói rằng sự tái lâm của Chúa có thể trì hoãn lâu lắm.
Thơ II Phi-e-rơ và thơ
Giu-đe có vài câu rất giống
nhau, đến nỗi một số học giả kim thời cho rằng ông nầy đã chép của ông kia, mặc
dầu họ không đồng ý là ông nào đã chép. Không cần nghĩ rằng ai đã chép của ai.
Các Sứ đồ thường du hành với nhau, và ông nọ luôn luôn nghe ông kia giảng đi
giảng lại cùng một bài tại những chi hội khác nhau. Như vậy, một vài câu và thí
dụ trong Kinh Thánh trở thành một phần ngữ vựng thông thường trong giới tín đồ
Ðấng Christ.
Ðoạn 1 -- Các Lời Hứa Lớn Lao Và Quí Báu
"Tôi mọi" của
Ðấng Christ (câu 1). Ðó là ý nghĩa
của chữ dịch là "tôi tớ." Trong thơ I Phi-e-rơ, ông tự xưng là
"Sứ đồ." Ðây ông thêm: "Tôi mọi." Phi-e-rơ càng gần lúc qua
đời, thì càng khiêm cung. Phao-lô, Gia-cơ, và Giu-đe cũng nói về mình như vậy.
"Sự nhận biết"(1) (câu 2) được nhấn mạnh là môi giới của ân điển,
bình an, và "mọi điều thuộc về sự sống và sự tin kính" (câu 3).
"Sự nhận biết" cũng là một trong những phương pháp (câu 5) cho ta
được "chắc chắn về sự Chúa kêu gọi và chọn lựa mình" (câu 10). Cũng
bởi "sự nhận biết" mà chúng ta thắng được "sự ô uế của thế
gian" (2:20). Nó cũng là lời khuyên bảo cuối cùng của thơ tín nầy (3:18).
Nó có nghĩa là hiểu biết Ðấng Christ qua Lời Ngài (Kinh Thánh). Như vậy, lời
Phi-e-rơ cảnh cáo lúc từ biệt ta là: "Chớ xao lãng Lời Ðức Chúa
Trời!"
Các "lời hứa rất
quí" (câu 4) chẳng những gồm
những vinh quang bề ngoài của Nước đời đời (câu 11), song còn gồm một bổn tánh
được biến cải, tức là bổn tánh Ðức Chúa Trời ở trong chúng ta. Bởi ân điển
Ngài, Ðức Chúa Trời ban bổn tánh Ngài cho ta, nhưng về phần ta, thì phải hết
sức cố gắng đạt tới (câu 5-11).
Bảy đức tánh thiên thượng (câu 5-11) là nhơn đức, học thức, tiết độ, nhịn
nhục, tin kính, yêu thương anh em(2) và yêu
mến. Ðó là các "kết quả" (câu 8) của "đức tin quí báu" (câu
1) mà chúng ta phải "thêm" (câu 5) vào các ơn phước Ðức Chúa Trời đã
"gia thêm" (câu 2) cho chúng ta. Ðó là những nấc thang từ đất lên
trời, bắt đầu ở đức tin và lên đến tuyệt điểm, là sự yêu thương trong Nhà đời
đời của Ðức Chúa Trời.
Phi-e-rơ linh giác mình
sắp tuận đạo (câu 14, 15). Ðây
dường như ông nhắc đến lời Ðức Chúa Jêsus đã bảo ông chừng 37 năm trước (Giăng
21:18, 19). Hoặc có lẽ Ðức Chúa Jêsus lại mới hiện ra với ông; hoặc cũng có lẽ
là sự hiện ra của Chúa theo truyền thoại "Quo vadis" (Chúa đi
đâu?" (xem lời chú giải giới thiệu thơ I Phi-e-rơ). "Tôi phải vội lìa
nhà tạm nầy" (câu 14) là một danh từ tuyệt mỹ của Kinh Thánh để chỉ về sự
chết. Moffatt dịch là: "Tôi gần
xếp trại của tôi lại." Phao-lô cũng nói như vậy (II Cô-rinh-tô 5:1-4).
Phi-e-rơ biết chắc về Ðấng
Christ và về sự vinh hiển tương lai
(câu 16-21). Quang cảnh Hóa hình mà ông được thấy đã trừ bỏ mãi mãi khỏi tâm
trí ông ý nghi ngờ đối với cái thực sự, là Ðấng Christ hằng sống và sắp tái
lâm, nhứt là lại có chứng cớ của lời tiên tri thêm vào nữa. Lòng tin quyết đó
khiến ông sẵn sàng tuận đạo. Ông càng tin chắc nơi thế giới tương lai vì thế
giới hiện tại gần qua đi. Câu 20 nên dịch như thế nầy thì tốt hơn: "Chẳng
một lời tiên tri nào trong Kinh Thánh do căn
nguyên riêng mà có."
"Những chuyện khéo đặt để" (câu 16): Một số người gọi sách Tin Lành
như vậy, và họ là tiền khu của các nhà phê bình kim thời.
Ðoạn 2 -- Các Giáo Sư Giả
Các giáo sư giả sắp đến (câu 1-22). Tân Ước nói đi nói lại rằng chúng sẽ
xuất hiện. Ðức Chúa Jêsus đã cảnh cáo rằng chúng sẽ đến (Ma-thi-ơ 7:15; 24:11,
24). Phao-lô (I Ti-mô-thê 4:1-3; II Ti-mô-thê 3:1-9), Giăng (I Giăng 4:1) và
Giu-đe (4-19) cũng đã cảnh cáo như vậy.
* * *
Thơ II Phi-e-rơ 2
Các giáo sư giả (2:1-22). Phi-e-rơ nói rằng
"sẽ có giáo sư giả," nhưng một vài lời ở đây ngụ ý rằng chúng đã xuất
hiện rồi. Những danh từ dùng đây không chỉ về thế gian, song chỉ về các thủ
lãnh ở trong Hội Thánh. Họ "truyền những đạo dối làm hại;" "chối
Chúa;" "luông tuồng;" "đạo thật vì cớ họ sẽ bị gièm
pha;" "lấy lời dối trá khoét anh em;" "theo lòng tư dục ô
uế mình mà ham mê sự sung sướng xác thịt;" "khinh dể quyền phép rất
cao;" "nói hỗn đến các bậc tôn trọng mà không sợ;" "như con
vật không biết chi, sanh ra chỉ làm thú vật;" "ưa thích sự dối trá
mình đang khi ăn tiệc với anh em;" "cặp mắt chúng nó đầy sự gian dâm,
chúng nó phạm tội không bao giờ chán;" "dỗ dành những người không
vững lòng;" "có lòng quen thói tham dục;" "là những con cái
đáng rủa sả;" "là những suối không nước;" là "những đám mây
bị luồng gió mạnh đưa đi;" "dùng những lời văn hoa hư đản;"
"đem những điều ham muốn của xác thịt và điều gian dâm mà dỗ dành" kẻ
khác; "làm tôi mọi sự hư nát."
Thật là một bức tranh thê thảm! Sự phóng túng,
hoang dâm, đạo đức lỏng lẻo, phạm thượng táo tợn đã xuất hiện ngay trong thế hệ
các Sứ đồ và đã gia tăng kinh khủng trong Hội Thánh! Rồi tới bao nhiêu thế kỷ
đằng đẵng có sự bại hoại của chế độ Thủ lãnh kia. Ngay bây giờ, trong thời kỳ
sáng suốt của chính chúng ta, trên nhiều miền của thế giới, giới thủ lãnh Giáo
hội có tổ chức chỉ là ký sanh trùng vô ích của xã hội loài người. Hội Thánh đã
quá quên rằng dầu mình ở trong thế gian, song chẳng nên thuộc về thế gian!
Tiêu diệt kẻ không tin
kính (câu 3-9). Ðây là một
"âm điệu" không dứt trong Kinh Thánh, mặc dầu kẻ không tin kính vẫn
choàng áo của Hội Thánh. Họ hãy tự cảnh tỉnh bởi việc xảy đến cho "các
thiên sứ đã phạm tội" (câu 4) (xem lời chú giải ở thơ Giu-đe), cho thế
gian đương thời Nô-ê (câu 5), cho Sô-đôm và Gô-mô-rơ (câu 6). Sự hủy diệt họ
chắc không sao tránh khỏi. Tuy nhiên, dầu sự hủy diệt khốc liệt chừng nào, sự
giải cứu dân Ðức Chúa Trời cũng rất chắc chắn.
Ðoạn 3 -- Chúa Trì Hoãn Tái Lâm
Thì giờ Chúa tái lâm (câu 1-15). Ðức Chúa Jêsus đã phán một vài lời mà
ta có thể giải thích là ngụ ý rằng Ngài tái lâm trong thế hệ ấy (Ma-thi-ơ
16:28; 24:34). Các Sứ đồ dùng những danh từ tỏ ra Ngài gần hiện đến (Rô-ma
13:12; Hê-bơ-rơ 10:25; Gia-cơ 5:8; Khải Huyền 1:3). Nhưng trong thí dụ về các
ta lâng, Ðức Chúa Jêsus ngụ ý rằng còn "cách lâu ngày" (Ma-thi-ơ
25:19) Ngài mới tái lâm. Trong thí dụ về Mười Nữ đồng trinh, Ngài nêu lên rằng
"người khôn" là người dự trù cho trường hợp "chàng rể đến
trễ" (Ma-thi-ơ 25:4, 5). Phao-lô cảnh cáo chúng ta chớ quá chắc chắn rằng
Chúa tái lâm ngay, và ông quả quyết "phải có sự bỏ đạo đến trước,"
rồi Chúa mới tái lâm (II Tê-sa-lô-ni-ca 2:2-3). Trong đoạn nầy, Phi-e-rơ ngụ ý
rằng cứ theo sự mong mỏi của loài người, thì có lẽ là theo tỷ lệ 1000 năm cho
một ngày (câu 8); do đó, ông ngụ ý rằng có thể còn hàng ngàn năm trong tương
lai, rồi Chúa mới tái lâm. Ðức Chúa Trời không tính thì giờ như loài người
tính. Ðối với Ngài, 1000 năm cũng như ngày hôm qua (Thi Thiên 90:4). Ngài sẽ
giữ lời hứa tùy theo niên biểu của Ngài, chớ không tùy theo niên biểu của loài
người. Nếu đặt những khúc Kinh Thánh nầy chung với nhau, thì dường như Ðức Chúa
Trời có ý định rằng mọi thế hệ kế tiếp nhau đều phải sống trong sự trông đợi
Ðức Chúa Jêsus tái lâm.
Sau gần 2000 năm trì hoãn, tình trạng nầy có ảnh
hưởng gì đến thái độ chúng ta đối với sự tái lâm của Chúa? Chúng ta phải bỏ hy
vọng chăng? Không bao giờ. Ít ra, sự tái lâm của Ngài cũng gần hơn ngót 2000
năm. "Lời hứa rất quí" có thể gần thực hiện hơn là chúng ta vẫn
tưởng. Nào ai biết rằng rốt lại, chính lúc nầy, đoàn xe lửa của Chúa chẳng đang
tiến vào ga trung ương?
Lý do trì hoãn (câu 9). Câu nầy dường như có nghĩa
rằng cơ hội được cứu rỗi sẽ chấm dứt khi Chúa tái lâm. Vậy, sự trì hoãn cốt để
hy vọng rằng mùa gặt Tin Lành có thể hết sức phong phú.
Lửa (câu 7, 10). Sự tái lâm của Chúa đã được ví sánh
với Nạn Nước Lụt. Phi-e-rơ đã nghe Ðức Chúa Jêsus phán như vậy (Ma-thi-ơ
24:37-39; Lu-ca 17:26-27). Trái đất đã bị nước lụt tiêu hủy. Lần sau, nó sẽ bị
lửa thiêu đốt. Lửa thật chăng? Nước đã thật là nước. Khi ấy chỉ có mặt đất bị tiêu hủy
thôi. Chính trái đất vẫn còn lại. Trái đất sẽ chỉ bị thiêu đốt bề mặt thôi
chăng? Hay là nó sẽ nổ tung? Hay là bởi va chạm với một tinh tú nào khác. Các
nhà thiên văn cho chúng ta hay rằng cả hai điều nầy thật đã xảy ra. Có những vật
giống như "tinh tú mới," thình lình xuất hiện, sáng lên mau lẹ, rồi
lần lần tắt và biến đi; hiện tượng nầy do sức nổ của một ngôi sao chết, tức là
một ngôi sao đã nguội đi. Trái đất ngày nay là một trong những "tinh tú
mới" đó, hoặc là một mảnh tinh tú xưa kia bị tung khỏi mặt trời, thành một
khối nóng. Khi các kế hoạch của Ðức Chúa Trời đã sẵn sàng, thì trái đất có thể
bị bùng cháy thành một khối lửa phừng phừng, hoặc bởi từ trung tâm nổ ra, hoặc
bởi va chạm với một vì tinh tú nào khác. "Trời mới, đất mới" (câu 13)
sẽ hiện ra. Chúng ta tự hỏi là trái đất nầy được lửa cải tạo, hay là sẽ có một
trái đất khác?
"Phao-lô, anh rất yêu dấu của chúng ta" (câu 15), cũng đã gởi thơ cho
những chi hội nầy, có lẽ Phi-e-rơ ngụ ý nói đến các thơ Ga-la-ti, Ê-phê-sô, và Cô-lô-se.
Trong thơ Ga-la-ti 2:11-21, họ đã đọc truyện Phao-lô thẳng thắn quở trách
Phi-e-rơ tại An-ti-ốt, mấy năm trước. Nhưng điều đó chẳng giảm bớt sự ngưỡng mộ
và tận tụy của Phi-e-rơ đối với Phao-lô. Mấy chữ: "Mọi bức thơ" (câu
16) ngụ ý rằng một vài chi hội chẳng những có thơ tín gởi cho mình, song cũng
có bộ thơ tín mà Phao-lô đã gởi cho các chi hội khác nữa. Chữ "mọi"
chỉ về toàn bộ. Mấy chữ: "Các phần Kinh Thánh khác" tỏ ra Phi-e-rơ kể
các thơ tín của Phao-lô là "Kinh Thánh." Câu nầy minh chứng rằng sự
cấu tạo Kinh điển Tân Ước đã bắt đầu dưới sự giám sát trực tiếp của các Sứ đồ
(xem các lời chú giải ở mục: "Chúng ta nhận được Kinh Thánh thể nào?"
trong sách nầy). Ngay đối với Phi-e-rơ, cũng "có mấy khúc khó hiểu"
(câu 16). Có lẽ ông đặc biệt ngụ ý đến bài giải luận của Phao-lô về Chúa tái
lâm trong hai thơ Tê-sa-lô-ni-ca .