Trang Đầu | Mục Lục | << Chương 69 | Chương 71 >> | Hướng Dẫn
Thơ I Giăng
Ðức Chúa Jêsus là Con Ðức Chúa Trời
Những kẻ theo Ngài phải làm sự công bình
Nếu chúng ta thuộc về Ngài, thì sẽ yêu thương
lẫn nhau
Cũng như thơ Hê-bơ-rơ, thơ tín
nầy không chỉ danh của tác giả và của người nhận thơ, mặc dầu nó tuyệt đối có
tánh cách riêng vì thường dùng những chữ "ta" (tôi) và "anh
em." Ngay từ lúc đầu, người ta đã thừa nhận đây là bức thơ của Sứ đồ Giăng
gởi chung cho các chi hội ở chung quanh thành Ê-phê-sô, để nhấn mạnh vào những
giáo lý chánh yếu của Tin Lành và để cảnh cáo về những tà giáo mới chớm nở,
nhưng sau lại sanh ra cho đạo Ðấng Christ một hình thức bại hoại và ngoại đạo
hóa.
Giăng. Theo truyền thoại được thừa nhận từ lâu đời, Giăng đã cư
trú tại Giê-ru-sa-lem, phụng dưỡng mẹ của Ðức Chúa Jêsus cho tới khi bà qua
đời; sau khi Giê-ru-sa-lem bị phá hủy, ông dời qua ở thành Ê-phê-sô. Vào lúc
cuối thế hệ các Sứ dồ, Ê-phê-sô là trung tâm của đạo Ðấng Christ vì vị trí địa
dư và số giáo hữu tại đó. Ông đã sống ở đây cho tới khi rất cao tuổi. Ông đặc
biệt chăm nom các chi hội ở Tiểu-Á-tế-á. Trong số các môn đệ của ông có Polycarpe, Papias và Ignace, là
những người đã trở thành Giám mục tại Si-miệc-nơ, Hiérapolis và An-ti-ốt. Lúc cao tuổi, tức là gần cuối thế kỷ, ông
viết sách Tin Lành, ba thơ tín và sách Khải Huyền.
Bối cảnh của thơ tín. Ðạo Tin Lành đã ở giữa thế gian chừng 60 hoặc 70 năm; ở
nhiều khu vực của đế quốc La-mã, đạo Chúa đã trở thành một tôn giáo trọng yếu
và một ảnh hưởng mạnh mẽ. Lẽ tự nhiên, người ta cố gắng đủ cách để hỗn hợp Tin
Lành với các triết lý và hệ thống tư tưởng đang thạnh hành. Một hình thức của
chủ nghĩa duy trí (gnosticisme) đã
phân chia Hội Thánh đương thời Sứ đồ Giăng; nó phóng đại giá trị của trí thức
chủ nghĩa, và quả quyết rằng trong bổn tánh loài người có yếu tố bất khả dung
hòa của nhị nguyên thuyết (dualisme);
rằng thần linh và thân thể là hai thực thể (entité)
riêng biệt, chống chọi với nhau; rằng tội lỗi chỉ ở trong xác thịt. Thần linh
có thể có những khoái cảm của nó, và thân thể cũng có thể làm theo điều nó ưa
thích. Sự tin kính thần bí, cao siêu của tâm thần hoàn toàn tương hợp với sự
sanh hoạt khoái lạc, nhục dục. Chủ nghĩa nầy chối bỏ sự thành nhục thể của Ðấng
Christ, và quả quyết rằng Ðấng Christ chỉ hiện hình người, chỉ là một ảo tượng;
rằng một khi loại bỏ những ý niệm duy vật, tỉ như Ðức Chúa Trời trở thành nhục
thể, thì người ta khả dĩ đạt tới bậc hiểu biết Ðức Chúa Trời một cách thiêng
liêng hơn. Tại thành Ê-phê-sô, một người tên là Cerinthus, làm thủ lãnh phong trào nầy. Ông tự nhận đã có những sự
từng trải thần bí trong tâm linh, và tôn cao sự hiểu biết Ðức Chúa Trời, song
lại là một người dâm đãng, giống như các giáo sư gian ác đang khuấy rối Bảy Hội
Thánh (Khải Huyền 2:2, 6, 14, 15, 20, 21). Suốt cả thơ tín nầy, dường như Giăng
chú ý đến bọn tà giáo đó, và ông nhấn mạnh rằng sự thật hiểu biết Ðức Chúa Trời
phải sanh ra sự biến cải phần đạo đức; rằng Ðức Chúa Jêsus thật là sự phát hiện
thể chất và chân chánh của Ðức Chúa Trời trong xác thịt.
Ðoạn 1 -- Ðức Chúa Trời Là Sự Sáng
Tác giả là một bạn thiết của Ðấng Christ (câu 1-4), và là một người
cộng sự với Ngài. "Tay chúng tôi đã rờ" (câu 1). Có lẽ Giăng dùng câu
nầy vì cớ tà giáo lan tràn rằng Ðức Chúa Jêsus chỉ là một "ảo tượng."
"Rờ" một "ảo tượng" thể nào được?
Ðức Chúa Trời là Sự Sáng (câu 5-10). Ðó là lời mở đầu sách Tin Lành (Giăng 1:4). Ðức
Chúa Jêsus đã phán như vậy (Giăng 8:12). Nhiều điều trong thơ tín nầy giống như
lời phán của Ðức Chúa Jêsus. "Sự sáng" chỉ về Nước chân lý, công
bình, trong sạch, vui vẻ và vinh quang khôn tả xiết. "Tối tăm" chỉ về
thế gian nầy có sự lầm lạc, xấu xa, nghi ngờ, sầu thảm, ngu dốt, gian ác. Theo
một ý nghĩa thiết thực và trực tự (littéral),
thì "sự sáng" có thể là một đặc tánh của Ðức Chúa Trời, vượt quá sự
hiểu biết của con mắt xác thịt. Ðức Chúa Trời "ở nơi sự sáng không thể đến
gần được" (I Ti-mô-thê 6:16); Ngài "bao phủ mình bằng ánh sáng"
(Thi Thiên 104:2); "Cha sáng láng" là một trong những danh hiệu của
Ðức Chúa Trời (Gia-cơ 1:17). Lúc Ðức Chúa Jêsus hóa hình, thì "áo xống
Ngài trở nên sáng rực và trắng tinh" (Mác 9:3). Thiên sứ chứng kiến sự
sống lại của Ðức Chúa Jêsus mặc "áo trắng như tuyết" (Ma-thi-ơ 28:2).
Hai thiên sứ theo hầu Ðức Chúa Jêsus lúc Ngài thăng thiên cũng "mặc áo
trắng" (Công vụ các sứ đồ 1:10). Trong sự hiện thấy ở sách Khải Huyền
1:14-16, "đầu và tóc" Ðức Chúa Jêsus "trắng như tuyết." Xem
thêm ở Khải Huyền 3:4.
Ðoạn 2 -- Bước Ði Trong Sự Sáng, AntiCHRIST
Bước đi trong sự sáng (câu 1-17). Cùng đi với Ðức Chúa Trời chẳng có
nghĩa là chúng ta phải hoàn toàn không vướng tội lỗi. Chúng ta đã phạm tội
trong quá khứ, và còn có tội lỗi trong bổn tánh mình. Chúng ta được giao hảo
với Ðức Chúa Trời chẳng phải nhờ sự vô tội của mình, bèn là nhờ Ðấng Christ
chịu chết vì tội lỗi ta. Lúc nào ta cảm biết mình có một hành động tội lỗi, mà
thật lòng khiêm nhường xưng tội với Chúa ngay, thì sự thông công của ta với Ðức
Chúa Trời có thể không bị gián đoạn. Một trong những điều kiện để được tha thứ
tội lỗi là chúng ta "giữ điều răn Ngài" (câu 4-6). Tuy nhiên, chính
tội lỗi là không vâng giữ các điều răn của Ngài. Ðó là một trong những lẽ mâu
thuẫn của Giăng. Theo một phương diện, người ta có thể được kể là công bình,
hiền đức. Nhưng đó chẳng có nghĩa là họ đã hoàn toàn thoát khỏi tội lỗi. Những
người thánh khiết hơn hết đều cảm biết sâu xa địa vị tội lỗi của mình. Xem thêm
ở đoạn 3:1-12.
Antichrist (kẻ địch lại
Ðấng Christ) (câu 18, 22; 4:3; II
Giăng 7). Không còn chỗ nào khác trong Kinh Thánh dùng danh từ nầy. Người ta
thường cho "kẻ địch lại Ðấng Christ" là một với "người tội
ác" ở II Tê-sa-lô-ni-ca 2 và "con thú" ở Khải Huyền 13. Nhưng
chính Kinh Thánh không đồng hóa như vậy. Lời lẽ của Giăng ngụ ý rằng ông dạy
bảo các độc giả hãy trông đợi sẽ có Antichrist
ở cuối kỷ nguyên Cơ-đốc-giáo (câu 18). Tuy nhiên, ông không ứng dụng danh từ
nầy cho một người, song cho cả đám giáo sư chống lại Ðấng Christ (câu 18; 4:3).
Ý tưởng của Tân Ước dường như là sự bội đạo sẽ dấy lên trong giới Cơ-đốc-giáo,
sẽ phát hiện nhiều cách, và rốt lại, sẽ lên tới cực điểm trong một người, hoặc
một tổ chức, hoặc cả hai.
* * *
Thơ I Giăng 2
Ðoạn 3 -- Sư Công Bình, Sự Yêu Thương
Sự công bình (câu 1-12). Trong đoạn nầy có mấy lời tuyên bố rất
mạnh mẽ về tội lỗi: "Ai phạm tội, thì chẳng từng thấy Ngài và chẳng từng
biết Ngài" (câu 6); "Kẻ nào phạm tội là thuộc về ma quỉ" (câu
8); "Ai sanh bởi Ðức Chúa Trời, thì chẳng phạm tội" (câu 9). Nhưng ở
đoạn 1:8, 10 Giăng vừa mới nói rằng: "Ví bằng chúng ta nói mình không có
tội chi hết, ấy là chính chúng ta lừa dối mình;" và rằng: "Nhược bằng
chúng ta nói mình chẳng từng phạm tội, ấy là chúng ta cho Ngài là kẻ nói
dối." Chúng ta cắt nghĩa những lời tuyên bố mâu thuẫn nầy thế nào? Thứ nhứt,
có sự khác nhau giữa phạm tội vì quen cố ý và phạm tội vì yếu đuối. Ðây phần
lớn là vấn đề bổn tánh bề trong. Con phụng hoàng có thể lỡ nhúng cánh vào bùn,
mà vẫn là con phụng hoàng. Thứ hai, có sự khác nhau giữa tuyệt đối và tương
đối. So sánh với Ðức Chúa Trời, thì chúng ta là tội nhân. Nhưng so sánh chúng
ta với những mực thước thường của loài người, thì có sự khác nhau rõ rệt giữa
người công bình và người gian ác, mặc dầu người công bình chẳng phải là không
có tội. Thứ ba,
có lẽ Giăng nghĩ đến một vài giáo sư tà giáo, dầu họ khoe mình được thông công
với Ðức Chúa Trời ở mức cao siêu hơn, nhưng đồng thời cũng ngụp lội trong sự ô
uế, vô đạo, tỉ như Giê-sa-bên ở Thi-a-ti-rơ.
Sự yêu thương (3:13-24). Ðiểm chánh yếu của thơ tín nầy là sự
yêu thương. "Sự yêu thương đến từ Ðức Chúa Trời" (4:7); "Ðức
Chúa Trời là sự yêu thương" (4:8); "Ai ở trong sự yêu thương là ở
trong Ðức Chúa Trời" (4:16); "Kẻ nào yêu, thì sanh từ Ðức Chúa
Trời" (4:7); "Kẻ nào yêu, thì... nhìn biết Ðức Chúa Trời" (4:7);
"Ai chẳng yêu, thì không biết Ðức Chúa Trời" (4:8); "Ai chẳng yêu,
thì ở trong sự chết" (3:14); "Ai ghét anh em mình, là kẻ giết
người" (3:15); "Ví có ai nói rằng: Ta yêu Ðức Chúa Trời, mà lại ghét
anh em mình, thì là kẻ nói dối" (4:20); "Chúng ta biết rằng mình đã
vượt khỏi sự chết qua sự sống, vì chúng ta yêu anh em mình" (3:14); "Kẻ
nào chẳng yêu anh em mình thấy, thì không thể yêu Ðức Chúa Trời mình chẳng thấy
được" (4:20); "Nếu ai có của cải đời nầy, thấy anh em mình đang cùng
túng mà chặt dạ, thì lòng yêu mến Ðức Chúa Trời thể nào ở trong người ấy
được?" (3:17); "Chúng ta yêu, vì Chúa đã yêu chúng ta trước"
(3:19); "Hỡi kẻ rất yêu dấu, chúng ta hãy yêu mến lẫn nhau" (4:7);
"Sự yêu thương trọn vẹn, thì cất bỏ sự sợ hãi" (4:18). Sự yêu thương
không phải là không hòa hiệp với các đức tánh trượng phu. Giăng, Sứ đồ của sự
Yêu thương, là một bậc đại trượng phu.
Ðoạn 4 -- Các Tiên Tri Giả, Sự Yêu Thương
"Hãy thử các
thần" (câu 1-6). Lời nầy nghĩa là gì? Trong
thế hệ các Sứ đồ, có những ân tứ đặc biệt của Ðức Thánh Linh (I Cô-rinh-tô 12),
và cũng có kẻ mạo nhận có những ân tứ ấy. Khúc sách nầy tỏ ra cách thử nghiệm
xem họ thật có hay không, -- tức là họ có nhìn nhận Ðấng Christ là Ðức Chúa
Trời hay không?
Sự yêu thương (câu 7-21). Giăng trở lại đề mục mà ông ưa thích, là sự
yêu thương, điểm chánh yếu của thơ tín nầy. Người ta thuật truyện tích về Giăng
rằng khi ông già yếu quá, không đi được nữa, thì họ phải khiêng ông vào nhà
thờ, và khi giảng, ông luôn luôn nói rằng: "Hỡi các con bé mọn, hãy yêu
thương nhau." Khi họ hỏi tại sao ông lặp đi lặp lại cùng một lời ấy, thì
ông đáp: "Ðó là điều răn của Chúa; khi chúng ta vâng giữ điều răn nầy, thì
đã làm đủ rồi."
"Kẻ nói dối" (câu 20). Sứ đồ của sự Yêu thương là một người nói rất
ngay thẳng. "Ai nói rằng: Ta yêu Ðức Chúa Trời, mà lại ghét anh em mình,
thì là kẻ nói dối." "Ví bằng chúng ta nói mình được giao thông với
Ngài, mà còn đi trong sự tối tăm, ấy là chúng ta nói dối" (1:6). "Kẻ
nào nói: Ta biết Ngài, mà không giữ điều răn Ngài, là người nói dối"
(2:4). "Ai là kẻ nói dối, há chẳng phải kẻ chối Ðức Chúa Jêsus là Ðấng
Christ sao?" (2:22). Ấy tức là họ chối những chân lý đời đời của sự sanh
tồn.
Ðoạn 5 -- Sự Biết Chắc
Chúng ta biết mình có sự sống đời đời (câu 21). "Biết" là
một trong những chữ chánh yếu của thơ tín nầy. "Chúng ta biết Ngài"
(2:3); "Chúng ta biết mình ở trong Ngài" (2:5); "Chúng ta biết
rằng... chúng ta sẽ giống như Ngài" (3:2); "Chúng ta biết rằng mình
đã vượt khỏi sự chết qua sự sống" (3:14); "Chúng ta biết mình là
thuộc về lẽ thật" (3:19); "Chúng ta biết Ngài ở trong lòng chúng
ta" (3:24); "Chúng ta biết mình ở trong Ngài" (4:13);
"Chúng ta biết sự yêu thương của Ðức Chúa Trời đối với chúng ta"
(4:16); "Chúng ta biết Ngài nghe chúng ta" (5:15); "Chúng ta
biết mình thuộc về Ðức Chúa Trời" (5:19); "Ta đã viết những điều nầy
cho các con, hầu cho các con biết mình có sự sống đời đời" (5:13). Có lẽ
Giăng nhấn mạnh vào chữ "biết" vì cớ duy trí chủ nghĩa (gnosticisme) đang thạnh hành, và
"hiểu biết" là chữ mà họ ưa nhứt. Trong khi mơ tưởng những điều mà họ
chẳng biết chi hết, thì họ "biết" rất nhiều điều không thật. Giăng
lặp đi lặp lại một vài điều mà tín đồ thật biết, và những điều ấy là thật.
Sự sống đời đời (câu 13). Chữ nầy được dùng rất nhiều lần trong sách Tin
Lành Giăng. Sự sống đời đời bắt đầu khi một người tin nhận Ðấng Christ, và
không bao giờ hết. Ấy là sự sống của Ðức Chúa Trời và vô cùng vô tận. Mục đích
của thơ tín nầy là chứng quyết rằng chúng ta có sự sống đời đời (câu 13). Nhiều
tín đồ ngã lòng vì không cảm biết chắc chắn rằng mình được cứu rỗi. Có khi ta
nghe nói rằng nếu chúng ta không biết mình được cứu rỗi, thì đó là dấu hiệu tỏ
ra mình không được cứu rỗi. Chúng tôi nghĩ rằng đó là một lời quả quyết cực
đoan. Ðồng hóa sự biết chắc được cứu rỗi với sự cứu rỗi, thì sai lầm. Một hài
nhi mới sanh ra, nhưng nó thật đã sanh ra. Khi nó lớn lên, thì sẽ biết chắc
mình đã sanh ra. Chúng tôi tin rằng đức tin của tín đồ có thể càng ngày càng
mạnh cho đến rốt lại, họ đạt tới sự hiểu biết chắc chắn, đầy trọn rằng mình đã
được cứu rỗi.
Thánh Linh, Nước, và Huyết (câu 6-9). Chắc Giăng viết khúc sách mầu nhiệm nầy trong
một trường hợp mà ta không biết, và trường hợp ấy làm cho khúc sách nầy có ý
nghĩa khi nó được viết ra. Vì thơ tín nầy phát xuất trong bầu không khí chối bỏ
sự thành nhục thể của Ðấng Christ, nên khúc sách nầy có thể chỉ về cái thực sự
rằng Ðấng Christ thật đã chịu báp-têm -- khi ấy có Ðức Thánh Linh làm chứng, --
và thật đã chịu chết.
Tội lỗi đến nỗi chết (câu 16). Ðây có lẽ là tội lỗi không tha thứ được mà Ðức
Chúa Jêsus đã phán tỏ (Ma-thi-ơ 12:31-32). Kết quả của tội lỗi nầy là linh hồn
bị hủy diệt và tuyệt vọng. Thơ Hê-bơ-rơ 6:4-6 và 10:26 cũng có nói đến một tội
lỗi giống như vậy. Xem lời chú giải thơ Hê-bơ-rơ 6:4-8.