Sinh ra trong một gia đình thờ cúng tổ tiên và sùng đạo, tôi thường theo mẹ tôi đi lễ vào những ngày trăng tròn. Vào những ngày kỷ niệm người thân mất, mẹ tôi thường làm cơm rất thịnh soạn để cúng những linh hồn quá cố. Tôi rất thích những ngày này vì được dịp ăn ngon, ăn no thỏa thích. Mẹ tôi cho rằng cúng giỗ là để tưởng nhớ đến người đã qua đời, để giúp đỡ linh hồn họ bớt cô đơn, bớt đói khát, bớt thiếu thốn về tiền bạc cũng như áo quần.
Lớn lên, tôi cố gắng tìm hiểu thêm về đạo, mong mỏi tìm thấy chân lý để lấy đó làm kim chỉ nam cho cuộc đời. Qua lời dạy: "Con hãy tự thắp đuốc lấy mà đi." Tôi cho mình là đuốc rồi, thì chỉ việc thắp lên mà đi thôi. Nhưng chẳng bao giờ tôi thỏa mãn với ý niệm này. Tôi cần biết tương lai tôi ra sao, và tôi sẽ đi về đâu.
Vào một ngày đầu Xuân, tôi tìm đến một nhà tướng số nổi tiếng, ông ta đăng quảng cáo trên báo chí là chỉ còn sống có mười năm nữa nên thiên hạ đổ xô đến để được giải đoán vận mạng. Sau khi hỏi tôi về ngày tháng năm sinh, ông ta rất chú trọng đến giờ sinh. Cuối cùng ông ta nói với tôi: "Số này sẽ lên chức tư lệnh trước năm 43 tuổi!" Ôi còn gì sung sướng bằng! Tôi rất thích thú vì điều ông ta tiên đoán đã đánh trúng vào khát vọng về quyền lực của tôi. Rồi hằng tháng tôi đến viếng ông ấy để được chỉ giáo những điều phải tránh và những điều nên làm. Tôi rất sợ nghe nói đến những điều xui xẻo, tai ương, bênh tật, nhất là sự chết. Tôi chỉ thích nghe đến thành công, phước đức, giàu sang và quyền quý mà thôi. Tôi mong thời gian qua nhanh để tôi sớm nắm trong tay cái viễn ảnh huy hoàng đó.
Ngày tháng trôi qua, tôi đắm mình trong niềm kiêu hãnh, tự hào. Tôi say sưa quyền lực bất kể đau khổ âm thầm của kẻ khác. Tôi đã vui hưởng mọi thú vui vật chất ở đời bất chấp mọi đau khổ ngấm ngầm của vợ con. Cờ bạc, ăn chơi với tôi là thứ giải trí, uống rượu, hút thuốc là một phần của cuộc đời, vui chơi, hưởng thụ là nghĩa sống, bến nước bến tình là ý tưởng của đời giang hồ đây đó.
Cứ tưởng đời mình sẽ huy hoàng và đường mình đi sẽ trải đầy hoa thơm, cỏ lạ. Nào ngờ đâu một ngày mùa Hè khắc nghiệt, oi bức, ngột ngạt đến thiêu đốt hết thảy mộng ước của tôi. Rồi từ đó tôi trở thành người tù khổ sai không tuyên án. Tôi làm bạn với gió núi, mưa rừng, muỗi sốt rét, đỉa vắt và rắn rít. Nhiều lúc đói khát quá, mệt mỏi quá, nhục nhã quá, câu nói của nhà tướng số càng làm cho tôi tê tái, xót xa, hận đời thấm thía. Những lúc cõi lòng tôi tan nát dày vò trong lòng tôi đã kêu cầu nhưng chẳng thấy dấu hiệu nào của sự cứu giúp. Những lúc rảnh rỗi nằm gác tay lên trán, tôi đã xấu hổ vì mình quá ngây thơ tin tưởng vào những lời tiên tri có tính cách xu thời của nhà tướng số. Làm sao ông ta biết được vận mạng của tôi.
Vào những đêm mưa rả rích trên mái tranh, trong tiếng kêu não nuột của chim cú, tôi mới nghiệm thấy cuộc đời quả là phù du, giả tạo, chóng qua, chóng tàn. Công danh rồi sẽ qua đi, tiền bạc của cải rồi sẽ hết sạch, địa vị rồi sẽ tan biến như khói, hạnh phúc cũng chỉ như bóng mây. Tôi trực diện với cái đói thường xuyên.
Ngày xưa cứ hết tiệc này đến tiệc khác, người ta thích mời mọc tôi, khoản đãi tôi. Bây giờ cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc, nước không đủ tắm. Tôi ao ước thấy nghĩa cử cao đẹp của một mạnh thường quân nào đó mỗi bữa chỉ cần tặng tôi một muỗng cơm thôi thì cũng đủ cho tôi phải đội ơn suốt đời. Ngày xưa tôi chỉ nói một tiếng là nhà cửa sạch, bây giờ tôi phải cầm chổi quét nhà, quét cả "lá thúi" trên rừng. Ngày xưa có vợ con nấu cơm hầu hạ, bây giờ tôi phải nấu ăn cho cả những người mình thấy không đáng để cho mình làm việc đó. Ngoài những việc như chém tre, đẵn gỗ trên rừng, tôi còn phải cuốc đất dưới cái nắng thiêu đốt của miền Trung Cao Nguyên, hay dưới cơn mưa dầm tầm tã.
Tiếng chim cú kêu, tiếng vượn hú đã trở thành quen thuộc, và tôi đã dần dà trở thành "người rừng." Những cử chỉ lịch sự, lời nói nho nhã, dáng điệu hiên ngang đã nhường chỗ cho sự thô lỗ, cộc cằn, ít nói, ít cười, cay đắng, nghi ngờ, nhút nhát, lo âu, sợ hãi, đề phòng... Chỉ có một niềm hy vọng còn là tôi vẫn chưa chết, tôi chưa bỏ thây nơi rừng núi thì ắt có ngày tôi sẽ vỗ cánh tung bay trong bầu trời tự do.
Tám mùa Thu trôi qua tôi ít có dịp thấy người khác, chỉ có những người cùng cảnh ngộ. Ngày đầu tiên được trở về, tôi thấy cái gì cũng đẹp cả: người ta, nhà cửa, xe cộ, thú vật, biển xanh và mây trời. Mấy đứa con lớn lên tôi không nhìn ra và hàng xóm chỉ vài ba người quen cũ, còn lại là những người lạ. Trong nhà đồ đạc đều vắng bóng. Tôi không còn một chiếc xe đạp để đi, không tiền, không việc làm, không quyền công dân, không chức phận. Vợ tôi tất bật chạy xuôi chạy ngược để kiếm sống nuôi con, và tôi trở thành gánh nặng cho gia đình. Càng nhìn thấy vợ con khổ sở, tôi càng ân hận, ân hận vì đã không ra đi kịp thời! Lòng tôi ngao ngán và buồn bã lắm, tôi hút thuốc lào nhiều hơn. Thấy thế vợ tôi mới mời tôi đi lễ. Vợ tôi hy vọng là nỗi sầu tư trong tôi sẽ tiêu tan. Nhưng than ôi! càng đi lòng tôi càng ngao ngán nặng nề. Nỗi buồn vẫn ray rứt, tim tôi như rướm máu, vai tôi nặng trĩu một gánh nặng ưu sầu.
Vài ngày sau đó ba người bạn cùng màu áo năm xưa đến thăm tôi. Tôi đã phát giác ra lý do họ đến thăm tôi không phải để chia xẻ nỗi mừng vui tôi được về nhà, mà cái chính là họ muốn mang đến cho tôi một tin mừng, tin mừng biết Chúa Giê-xu, sự cứu rỗi và sự sống đời đời. Tôi mỉm cười bảo thầm: "Mấy cha này quả thật là cuồng tín! Thời buổi khó khăn này sao không đi làm kiếm tiền nuôi vợ con mà cứ đi nói về cứu rỗi, về sự sống đời đời, nghe xa vời quá vậy!"
Tôi thật nghi ngờ về những điều họ nói về Chúa Giê-xu, nhưng phải thành thật mà thú nhận là trên gương mặt ba người đó có một cái gì thật bình an, hy vọng, vui mừng trong lúc những người khác đầy vẻ lo âu sợ sệt!
Họ tiếp tục đến thăm viếng tôi, nài nỉ mời tôi đi nhà thờ. Tôi ngạc nhiên tự hỏi là tôi có đạo mà còn rủ tôi đến nhà thờ để làm gì? Tôi đã có tôn giáo, tôi đâu cần tôn giáo của họ nữa. Rồi họ cứ đến, cứ mời mọc. Tôi thấy họ cầu nguyện cho tôi được đi nhà thờ và nước mắt họ đã lăn trên gò má. Cuối cùng tôi đã hứa là sẽ đi, tôi phải đến đó xem thử có cái gì hấp dẫn mà mấy người này bị lôi cuốn, say mê quá vậy. Nhưng tuần qua tuần lại tôi vẫn chưa đi nhà thờ được. Đến lúc sắp bước chân đi thì có người đến rủ tôi đi dự tiệc hay tham dự việc làm ăn. Mãi đến mấy tuần sau tôi mới đặt chân đến nhà thờ. Ba người bạn tôi đứng đón trước cổng nhà thờ Trần Cao Vân thật mừng rỡ, tươi cười nghênh tiếp tôi như tiếp một thượng khách.
Khi nghe bài giảng đầu tiên tôi được biết là mọi người ai cũng có tội. Vì yêu thương kẻ có tội nên Đức Chúa Trời mới sai Con Một của Ngài là Đức Chúa Giê-xu xuống trần chết thế cho tội lỗi của nhân loại. Chưa bao giờ tôi nghĩ là tôi có tội. Nhưng Thánh Kinh đã cho biết chúng ta có tội vì tổ phụ chúng ta là A-đam đã phạm tội. Chúng ta có tội vì bội nghịch cùng Đức Chúa Trời. Ngài đã tạo dựng chúng ta từ cát bụi, Ngài hà hơi sinh khi để khi ta được giống như hình hài của Ngài, thế mà chúng ta không còn biết đến Ngài, chối bỏ Ngài và đi thờ những vật, những tượng của thế gian. Tôi đã mãi mê trên con đường công danh đầy tham vọng xấu xa; tôi đã không hề để ý tới Giê-xu, Thiên Chúa Ngôi Hai đã bị đóng đinh trên thập tự giá gần hai ngàn năm trước để đền tội cho tôi, cho cả nhân loại!
Tôi bắt đầu đọc Thánh Kinh và cứ mỗi sáng lúc năm giờ là tôi dậy, đạp xe đến nhà thờ nghe giảng và cầu nguyện. Mới làm quen với nhà thờ, tôi chẳng biết phải cầu nguyện ra sao. Tôi thường quỳ lặng yên lắng nghe lời cầu nguyện của người bên cạnh ngạc nhiên hết sức khi tôi nghe họ thành thật thổ lộ tâm sự mình đem dâng trình hết thảy cho Chúa. Tôi có cảm tưởng là họ đang nói chuyện thật sự với Cha trên trời. Ôi còn gì thân mật hơn, gần gũi hơn, dễ thương hơn là tình cha con. Đôi khi tâm sự, nỗi lòng của họ cũng giống như của tôi, cho nên gánh nặng của đời tôi được cất đi nhẹ nhàng lúc nào không hay. Tôi biết dù chưa nói ra nhưng Chúa đã biết tôi. Chúa biết đời tôi từ lúc đứng, lúc nằm, lúc ngồi, Ngài đã nghiêng vai đỡ lấy gánh sầu tư cho tôi. Càng ngày tôi càng thấy thư thái, huyết Ngài đổ ra trên thập tự giá gần hai ngàn năm đã rửa sạch tội lỗi của tôi.
Tuần lễ sau, tôi quyết định tin Chúa. Nỗi vui mừng trần ngập tâm hồn tôi. Nhưng vợ tôi rất bối rối: "Anh nên cẩn thận vì anh còn Má!"
Chính vợ tôi phân vân không hiểu con đường tôi đang chọn có đúng hay chưa, hay chỉ là một sự ngây thơ tin tưởng như tôi đã tin vào nhà tướng số! Một hôm nàng nghe tôi làm chứng về Chúa: "Từ ngày tin Chúa, anh được biến đổi hoàn toàn, anh không còn hút thuốc lào nữa, không còn uống rượu nữa, tánh tự kiêu đã giảm rất nhiều. Và bây giờ em có thể làm bất cứ việc gì tùy ý mà anh không bị ảnh hưởng vì anh đã có Chúa trong lòng."
Vợ tôi kinh ngạc, xúc động cảm thấy quyền năng tái tạo lạ lùng của Chúa trên đời sống tôi. Trong lễ thờ phượng kế đó nàng đã tin nhận Chúa cách dứt khoát không đợi đến lời kêu gọi của mục sư.
Từ đó phước hạnh cứ đổ đầy. Tôi có thể ca hát luôn ngày, càng đọc Kinh Thánh tôi càng thấy no nê, ngọt ngào, thỏa mãn, vui mừng, hy vọng. Và sau vài tháng cầu nguyện, các con tôi đều tin Chúa.
Chúa đã nhậm lời cầu nguyện của tôi và cho tôi đến vùng đất hứa cách an toàn nhanh chóng. Mặc dù cuộc hành trình trên biển đông đầy thử thách, khó khăn và nguy hiểm, nhưng Ngài đã đưa cánh tay quyền năng bảo vệ con thuyền nhỏ bé của chúng tôi đến bến bờ vô sự. Chính trong chuyến đi này tôi thấy phép lạ mà Ngài đã thực hiện để cứu giúp chúng tôi.
Từ nay cuộc đời của tôi trong tay Chúa. Tình yêu Ngài đã phủ lấp hồn tôi khiến tôi không thể nào không cho tình yêu ấy tuôn chảy khắp muôn phương. Trong Ngài tôi nhận được sự sống mới, sự sống phước hạnh, sự sống đời đời.
Ha-lê-lu-gia! Cảm tạ ơn Chúa vô cùng!
Hồ Đấu
Perth (Australia)
31/12/97
© 2001 TinLanh.org. Used by permission.