Ma-thi-ơ 10:1-15; Mác 6:7-13; Lu-ca 9:1-6, 10:1-20
Kính thưa Quý vị: Tuần trước chúng ta đã học về những việc làm và tâm tình của Chúa Giê-xu trong giai đoạn đầu tiên của đời hành đạo của Ngài. Nhìn đám đông và thấy cánh đồng thuộc linh đã chín vàng, “9:37 Ngài bèn phán cùng môn đồ rằng: Mùa gặt thì thật trúng, song con gặt thì ít. 9:38 Vậy, hãy cầu xin chủ mùa gặt sai con gặt đến trong mùa mình.” Hôm nay chúng ta sẽ học đoạn kế tiếp là Ma-thi-ơ 10:1-15, để thấy không những chỉ nói suông, Chúa Giê-xu đã làm một việc cụ thể trong vấn đề này: Ngài sai các môn đồ đi ra để dạy dỗ, rao giảng Tin Lành, cũng như làm những phép lạ giúp người. Mặc dù đoạn này ghi lại một số lời dạy chỉ áp dụng cho các môn đồ lúc đó, chúng ta vẫn có thể rút tỉa được một số bài học căn bản khi đi ra gặt lúa trong cánh đồng thuộc linh.
Ma-thi-ơ 10:1-15
1Ðức Chúa Giê-xu gọi mười hai môn đồ đến, ban quyền phép trừ tà ma, và chữa các thứ tật bịnh.
2Tên mười hai sứ đồ như sau nầy: Sứ đồ thứ nhất là Si-môn, cũng gọi là Phi-e-rơ, và Anh-rê là em người; Gia-cơ con của Xê-bê-đê, và Giăng là em Gia-cơ;
3Phi-líp cùng Ba-tê-lê-my; Thô-ma, và Ma-thi-ơ là người thâu thuế; Gia-cơ con của A-phê, cùng Tha-đê;
4Si-môn là người Ca-na-an, cùng Giu-đa Ích-ca-ri-ốt, là kẻ phản Ðức Chúa Giê-xu.
5Ấy đó là mười hai sứ đồ Ðức Chúa Giê-xu sai đi, và có truyền rằng: Ðừng đi đến dân ngoại, cũng đừng vào một thành nào của dân Sa-ma-ri cả;
6song thà đi đến cùng những con chiên lạc mất của nhà Y-sơ-ra-ên.
7Khi đi đường, hãy rao giảng rằng: Nước thiên đàng gần rồi.
8Hãy chữa lành kẻ đau, khiến sống kẻ chết, làm sạch kẻ phung, và trừ các quỉ. Các ngươi đã được lãnh không thì hãy cho không.
9Ðừng đem vàng, hoặc bạc, hoặc tiền trong lưng các ngươi;
10cũng đừng đem cái bao đi đường, hoặc hai áo, hoặc giày, hoặc gậy; vì người làm việc đáng được đồ ăn.
11Các ngươi vào thành nào hay là làng nào, hãy hỏi thăm ai là người đáng tiếp rước mình, rồi ở nhà họ cho đến lúc đi.
12Và khi vào nhà nào, hãy cầu bình an cho nhà ấy;
13nếu nhà đó xứng đáng, thì sự bình an các ngươi xuống cho; bằng không, thì sự bình an các ngươi trở về các ngươi.
14Nếu ai không tiếp rước, không nghe lời các ngươi, khi ra khỏi nhà đó, hay là thành đó, hãy phủi bụi đã dính chân các ngươi.
15Quả thật, ta nói cùng các ngươi, đến ngày phán xét, thì xứ Sô-đôm và xứ Gô-mô-rơ sẽ chịu đoán phạt nhẹ hơn thành ấy.
1. Làm gì?
Những lời dạy trong đoạn này dành cho những người mà Ma-thi-ơ gọi là “mười hai môn đồ,” sau đó được gọi là “sứ đồ.” Danh sách của các vị này cũng được ghi lại trong các sách Mác 3:16-19, Lu-ca 6:14-16 và Công Vụ 1:13.
Như Ma-thi-ơ ghi trong câu 4:23, và lập lại trong câu 9:35, trước kia “Ðức Chúa Giê-xu đi khắp các thành, các làng, dạy dỗ trong các nhà hội, giảng tin lành nước Ðức Chúa Trời, và chữa lành các thứ tật bịnh.” Xin để ý rằng chỉ sau khi Ngài sống lại và dạy dỗ thêm, Ngài mới bảo các môn đồ đi “dạy dỗ muôn dân” như trong Ðại Mạng Lệnh Ma-thi-ơ 28:18. Giờ đây, Ngài sai các môn đồ làm những việc khác như Ngài đã làm: “10:7Khi đi đường, hãy rao giảng rằng: Nước thiên đàng gần rồi. 10:8 Hãy chữa lành kẻ đau, khiến sống kẻ chết, làm sạch kẻ phung, và trừ các quỉ.”
Có lẽ có nhiều điều khác mà các môn đồ muốn giảng lúc đó, như về chính quyền La-mã, hay sự giả hình của người Pha-ri-si. Nhưng Chúa Giê-xu dạy họ rất rõ ràng là họ chỉ được nói đến việc nước thiên đàng đã gần đến. Phao-lồ viết trong I Cô-rinh-tô 4:20, “Nước Ðức Chúa Trời chẳng ở tại lời nói, mà ở tại năng lực.” Theo định nghĩa này, có một vài chỗ trong Kinh thánh nói rằng nước thiên đàng đã đến thế gian lúc đó. Sau khi Chúa Giê-xu chữa người bị quỉ ám trong Ma-thi-ơ 12:22, Ngài phán, “28Mà nếu ta cậy Thánh Linh của Ðức Chúa Trời để trừ quỉ, thì nước Ðức Chúa Trời đã đến tận các ngươi. 29Hay là, có lẽ nào, ai vào nhà một người mạnh sức để cướp lấy của, mà trước không trói người mạnh sức ấy được sao?” Nước thiên đàng đã đến khi Ngài bước vào vương quốc của ma quỉ, trói nó lại, và tước quyền năng của nó. Có một vài chỗ khác lại nói rằng nước thiên đàng sắp đến. Mác 9:1 ghi lại lời Chúa Giê-xu phán cùng môn đồ, “Quả thật, ta nói cùng các ngươi, trong những người đứng đây, có mấy kẻ chẳng chết trước khi chưa thấy nước Ðức Chúa Trời lấy quyền phép mà đến.” Lời tiên tri này đã được thành tựu trong lễ Ngũ Tuần, được ghi lại trong sách Công Vụ đoạn 2. Cũng có một vài chỗ khác lại nói rằng nước thiên đàng chưa đến, như trong lời Chúa Giê-xu dạy chúng ta cầu nguyện “Nước Cha được đến; Ý Cha được nên, ở đất như trời!” (Ma-thi-ơ 6:10)
Trong lúc người Do thái tin rằng khi Ðấng Mê-si của họ đến, thế giới cũ sẽ chấm dứt tức thì, nhường chỗ cho nước của Ðức Chúa Trời, Chúa Giê-xu dạy khác: Nước thiên đàng đã bắt đầu trong thời của Ngài, nhưng chỉ đến một cách trọn vẹn trong ngày cuối cùng khi Ngài trở lại thế gian lần thứ hai. Nói cách khác, chúng ta đang sống trong cả thế gian cũ, lẫn thế gian mới. Ngày hôm nay thế gian không còn hoàn toàn nằm dưới sự thống trị của Sa-tan, và chúng ta có thể sống một đời sống chiến thắng trong nước Ðức Chúa Trời. Dầu vậy, trong giai đoạn “giao thời” này, cuộc chiến thuộc linh vẫn đang tiếp diễn một cách mãnh liệt. Có lúc chúng ta cảm nhận được quyền năng của Ðức Chúa Trời; có lúc thấy như ma quỉ đang lộng hành. Như khi hai luồng khí nóng và lạnh gặp nhau, bão tố nổi lên, đời sống người tín đồ có thể gặp nhiều sự bất công, bách hại. Ðiều quan trọng là chúng ta phải tin chắc rằng nước thiên đàng sẽ hoàn toàn đến trong ngày cuối cùng, khi Sa-tan bị quăng vào ngọn lửa đời đời.
Ngày hôm nay, sứ điệp của chúng ta cho người khác cũng vậy: “Nước thiên đàng gần rồi.” Thật ra, những ai muốn đến với nước thiên đàng chỉ cần tin vào Chúa Giê-xu, để có thể nhờ dòng huyết của Ngài trên thập tự giá mà bước vào Thiên Ðàng khi Ngài trở lại lần thứ hai, cũng như để nhận được quyền năng chiến thắng của Ngài khi sống trên đời này.
Chúa Giê-xu cũng bảo các môn đồ “10:8Hãy chữa lành kẻ đau, khiến sống kẻ chết, làm sạch kẻ phung, và trừ các quỉ.” Xin chúng ta để ý rằng đây không phải là sứ mạng chính mà Ngài giao cho họ. Chúng được thực thi để chứng tỏ sự quan tâm của Ngài đối với nhu cầu vật chất của con người, nhưng quan trọng hơn là để làm chứng cho sứ điệp rằng nước thiên đàng đã gần đến trong quyền năng.
Nhìn những người sứ đồ, chúng ta thấy họ chỉ là những người bình thường, và mệnh lệnh đi ra làm phép lạ cứu người xem ra thật khó thi hành. Nhưng Ma-thi-ơ ghi rất rõ rằng họ đã được Chúa “1ban quyền phép trừ tà ma, và chữa các thứ tật bịnh” để làm những việc phi thường. Ðây phải là điều an ủi và khích lệ cho chúng ta. Khi nghi ngờ khả năng hầu việc Chúa của mình, xin chúng ta nhớ rằng nếu Chúa gọi, Ngài sẽ ban quyền phép để chúng ta hoàn thành sứ mạng. Phao-lồ viết trong thơ 1 Cô-rinh-tô 1:27-29, “Ðức Chúa Trời đã chọn những sự dại ở thế gian để làm hổ thẹn những sự mạnh; Ðức Chúa Trời đã chọn những sự hèn hạ và khinh bỉ ở thế gian, cùng những sự không có, hầu cho làm những sự có ra không có, để chẳng ai khoe mình trước mặt Ðức Chúa Trời.” Trong Ðại Mạng Lệnh Ma-thi-ơ 28:18, “Ðức Chúa Giê-xu đến gần, phán cùng môn đồ như vầy: Hết cả quyền phép ở trên trời và dưới đất đã giao cho ta. Vậy, hãy đi… Và nầy, ta thường ở cùng các ngươi luôn cho đến tận thế.” Khi cầu nguyện chữa bịnh, chúng ta cầu nguyện trong danh Chúa Giê-xu, và vì thế với quyền năng của Ngài. Lu-ca 10:17-19 ghi rằng, “Bảy mươi môn đồ trở về cách vui vẻ, thưa rằng: Lạy Chúa, vì danh Chúa, các quỉ cũng phục chúng tôi. Ðức Chúa Giê-xu bèn phán rằng: Ta đã thấy quỉ Sa-tan từ trời sa xuống như chớp. Nầy, ta đã ban quyền cho các ngươi giày đạp rắn, bò cạp, và mọi quyền của kẻ nghịch dưới chân; không gì làm hại các ngươi được.” Vấn đề là nhiều người tín đồ không biết rằng mình có quyền phép của Ðức Chúa Trời, và đây là một trong những lý do chúng ta phải học Kinh thánh.
Sai các sứ đồ đi ra giảng Tin Lành và làm phép lạ, Chúa Giê-xu giải thích thêm, “8Các ngươi đã được lãnh không thì hãy cho không.” Câu này vẫn còn áp dụng cho chúng ta. Vì đã nhận được tình yêu thương, sự tha thứ, ân điển và chân lý một cách nhưng không (freely) từ Chúa Giê-xu, chúng ta phải vui vẻ, tình nguyện đi ra rao giảng Tin Lành như vậy. Chúng ta không thể làm điều này mà cảm thấy bực tức như bị bắt buộc phải làm. Cũng vậy, quyền năng làm phép lạ cũng không đến từ sự trau dồi luyện tập của các sứ đồ, nhưng do Thượng Ðế ban cho một cách nhưng không. Vì thế, họ phải dùng chúng cho người khác như vậy. Ngày hôm nay, nhiều người chúng ta không nhận được quyền phép “chữa lành kẻ đau, khiến sống kẻ chết, làm sạch kẻ phung, và trừ các quỉ” như các sứ đồ xưa, nhưng ai cũng đều nhận được quyền đến với Ðức Chúa Trời trong sự cầu nguyện, cũng như một số ơn tứ khác. Xin chúng ta tận dụng chúng để đem người khác về với Ðức Chúa Trời.
2. Cho ai?
Sai các môn đồ đi ra, Chúa dặn kỹ càng, “5Ðừng đi đến dân ngoại, cũng đừng vào một thành nào của dân Sa-ma-ri cả; 6song thà đi đến cùng những con chiên lạc mất của nhà Y-sơ-ra-ên.” Có phải Chúa Giê-xu kỳ thị chủng tộc hay không? Phải chăng Gia-cơ mâu thuẫn với Ngài khi dạy rằng, “2:9Nhưng nếu anh em tây vị người ta, thì phạm tội, luật pháp bèn định tội anh em như kẻ phạm phép”? Thưa không, Chúa đã giảng đạo cho người đàn bà Sa-ma-ri (Giăng 4:4-42) và đã chữa bịnh cho đầy tớ của người ngoại (Ma-thi-ơ 8:5-13 và 15:21-28). Hơn nữa, sau đó, Ngài dạy chúng ta trong Ðại Mạng Lịnh Ma-thi-ơ 28:18: “Vậy, hãy đi dạy dỗ muôn dân.” Trong sách Công Vụ, Ngài nhắn nhủ, “1:8Nhưng khi Ðức Thánh Linh giáng trên các ngươi, thì các ngươi sẽ nhận lấy quyền phép, và làm chứng về ta tại thành Giê-ru-sa-lem, cả xứ Giu-đê, xứ Sa-ma-ri, cho đến cùng trái đất.”
Rõ ràng là mạng lịnh đi đến dân Y-sơ-ra-ên mà thôi chỉ dành cho các sứ đồ lúc đó, chứ không phải cho chúng ta hôm này. Ðây là vì Ðức Chúa Trời muốn người Do thái, là tuyển dân của Ngài, nghe Tin Lành trước, và sau đó qua họ mà người ngoại như chúng ta mới được nghe. Giăng ghi lại lời Chúa Giê-xu nói với người đàn bà Sa-ma-ri, “4:22Các ngươi thờ lạy sự các ngươi không biết, chúng ta thờ lạy sự chúng ta biết, vì sự cứu rỗi bởi người Giu-đa mà đến.” Phao-lồ viết trong thơ Rô-ma, “1:16Thật vậy, tôi không hổ thẹn về Tin Lành đâu, vì là quyền phép của Ðức Chúa Trời để cứu mọi kẻ tin, trước là người Giu-đa, sau là người Gờ-réc.”
Trên thực tế, tất cả mọi sứ đồ đều là người Do thái. Lúc này họ rất khinh miệt người ngoại. Lu-ca ghi lại rằng, sau khi có người Sa-ma-ri không tiếp rước Ngài, “9:54Gia-cơ và Giăng là môn đồ Ngài, thấy vậy, nói rằng: Thưa Chúa, Chúa có muốn chúng tôi khiến lửa từ trên trời xuống thiêu họ chăng? 9:55Nhưng Ðức Chúa Giê-xu xây lại quở hai người, mà rằng: Các ngươi không biết tâm thần nào xui giục mình.” Chúa biết rằng lúc đó họ vẫn chưa thấu hiểu Tin Lành, và vì thế chưa sẵn sàng đi đến người ngoại. Họ có thể lạm dụng quyền phép Ngài ban để làm hại hơn là giúp đỡ người ngoại.
Ngày hôm nay mọi người tín đồ chúng ta đều phải vâng theo Ðại Mạng Lệnh để đi ra giảng Tin Lành cho mọi người, bất kể màu da. Dầu vậy, chữ “Gọi” trong câu 1 hàm ý rằng mỗi người có một sự kêu gọi riêng, có thể thay đổi theo thời gian, để bước vào cánh đồng thích hợp với bối cảnh và hoàn cảnh của mình. Chúa không gọi chúng ta đi đến nơi mình chưa sẵn sàng, hay không có khả năng thích hợp. Ðiều chúng ta cần làm là lắng nghe, và vâng theo sự kêu gọi riêng này. Theo kinh nghiệm cá nhân của tôi, sự kêu gọi này nhiều khi “tự nhiên” và rõ ràng lắm. Mặc dầu có khả năng nói tiếng Anh khá thông thạo, tôi không có sự kêu gọi đi hầu việc Chúa giữa vòng người Mỹ, nhưng biết chắc Chúa muốn gọi tôi vào cánh đồng người Việt Nam. Vấn đề là nhiều khi chúng ta có những ý tưởng và hoài bão lớn lao bên ngoài ý Chúa, hay khả năng của mình. Ði theo chúng chỉ đưa đến sự nản lòng và thất bại mà thôi.
3. Bằng cách nào?
Chúa không đòi hỏi tất cả mọi người bỏ nhà cửa và nghề nghiệp, đi xa rao giảng Tin Lành. Cánh đồng thuộc linh có thể ở ngay trong gia đình, hàng xóm và sở làm. Những lời dặn dò kế tiếp của Chúa không dành cho những người có việc làm ngoài đời, nhưng cho các sứ đồ, và những người dâng mình hầu việc Chúa trọn thời gian.
Thứ nhất Chúa Giê-xu dặn họ khi đi ra, “9Ðừng đem vàng, hoặc bạc, hoặc tiền trong lưng các ngươi; 10cũng đừng đem cái bao đi đường, hoặc hai áo, hoặc giày, hoặc gậy.” Lý do giản dị có thể là họ không nên mang theo hành lý cồng kềnh để làm cản trở chuyến đi. Nhưng tôi nghĩ lý do quan trọng hơn là họ phải chứng tỏ niềm tin hoàn toàn vào sự chu cấp của Ðức Chúa Trời: Ngài sẽ ban cho họ mọi nhu cầu cần thiết. Họ không cần đem theo tiền vì Ngài sẽ cho họ ăn, không cần đem theo áo vì Ngài sẽ cho họ mặc.
Khi Phao-lồ ngồi trong tù, ông viết cho Hội thánh Phi-líp như sau, “4:10Tôi được rất vui mừng trong Chúa, vì nay anh em lại lo tưởng về tôi lần nữa; anh em vẫn tưởng đến điều đó lắm, nhưng không có dịp tiện. 11Không phải là tôi muốn nói đến sự cần dùng của tôi; vì tôi đã tập hễ gặp cảnh ngộ nào, cũng thỏa lòng ở vậy. 12Tôi biết chịu nghèo hèn, cũng biết được dư dật. Trong mọi sự và mọi nơi, tôi đã tập cả, dầu no hay đói, dầu dư hay thiếu cũng được. 13Tôi làm được mọi sự nhờ Ðấng ban thêm sức cho tôi.” Giáo sĩ Hudson Taylor nói rằng, “Ý Chúa được thực thi trong phương cách của Ngài sẽ không thiếu sự cung cấp của Ngài.”
Thế thì Ðức Chúa Trời cung cấp cho người hầu việc Ngài toàn thời gian như thế nào? Thưa, bằng cách dùng người tín đồ khác, như Chúa Giê-xu nói tiếp, “9vì người làm việc đáng được đồ ăn.” Người hầu việc Chúa không được thu trữ tiền bạc, làm giàu trên sứ điệp Tin Lành; nhưng cũng không phải bị phân tâm vì những nhu cầu vật chất trước mắt. Phao-lồ viết trong sách I Cô-rinh-tô, “9:13-14Anh em há chẳng biết rằng ai hầu việc thánh thì ăn của dâng trong đền thờ, còn ai hầu việc nơi bàn thờ thì có phần nơi bàn thờ sao? Cũng vậy, Chúa có truyền rằng ai rao giảng Tin Lành thì được nuôi mình bởi Tin Lành.” Giúp đỡ tài chánh cho người tôi tớ Chúa là một đặc ân và vinh dự của mọi tín đồ, và Chúa muốn cho mọi người cơ hội được đóng góp trực tiếp hay gián tiếp vào trong việc gặt hái thuộc linh.
Chúa Giê-xu cũng hứa sẽ cung cấp nhà ở cho các sứ đồ. Ngài dặn thêm, “11Các ngươi vào thành nào hay là làng nào, hãy hỏi thăm ai là người đáng tiếp rước mình, rồi ở nhà họ cho đến lúc đi.” Không tìm những nhà sang trọng để đến ở, họ phải tìm đến nhà những người xứng đáng. Nhưng thế nào là xứng đáng? Phải chăng tất cả mọi người đều không xứng đáng nhận Tin Lành? Trong ngôn ngữ Hy-lạp lúc đó, đây nói đến những người giàu lòng từ thiện. Một phần có lẽ họ là những người dễ mở lòng đón nhận Tin Lành. Một phần khác có lẽ Chúa không muốn các sứ đồ sống chung với những người bị mang tiếng xấu. Vâng, các sứ đồ phải tìm đến họ để giảng Tin Lành, nhưng ở chung với họ là điều khác.
Khi đã tìm được một nơi ở, các sứ đồ cũng không nên dọn qua nhà khác, như thể không vừa lòng với nhà trước. Ðối với phong tục lúc đó, việc làm này hàm ý rằng người chủ nhà đã không lo cho họ đầy đủ nên họ phải dọn đi. Nó có thể nói lên sự quan tâm đến tiện nghi vật chất của các sứ đồ, và đưa đến nghi vấn về sự hy sinh của họ.
4. Kết quả ra sao?
Các sứ đồ không đến một nơi xa để rồi cả ngày nằm trong nhà. Họ phải đi thăm hết nhà này đến nhà kia để rao giảng Tin Lành. Chúa dạy, “12Và khi vào nhà nào, hãy cầu bình an cho nhà ấy.” Ðây là một dấu hiệu thân thiện dễ gây thiện cảm. Các sứ đồ không được vô lễ, khiếm nhã, hay trịch thượng. Nhưng ở đây Chúa không dạy họ chỉ nói trên đầu môi chót lưỡi; lời chúc của họ thật sự có quyền năng. Chúa hứa, “13Nếu nhà đó xứng đáng, thì sự bình an các ngươi xuống cho;” tức là “xuống nhà đó.”
Ðiều quan trọng mà chúng ta cần để ý là không phải nhà nào cũng đón nhận Tin Lành. Chúa nói tiếp, “13Bằng không, thì sự bình an các ngươi trở về các ngươi. 14Nếu ai không tiếp rước, không nghe lời các ngươi, khi ra khỏi nhà đó, hay là thành đó, hãy phủi bụi đã dính chân các ngươi.” Nếu có người không nghe Tin Lành, Chúa muốn các sứ đồ không bị nản chí và bỏ cuộc, vì coi đó là sự thất bại của mình. Chúng ta phải luôn nhớ rằng Chúa chỉ sai chúng ta đi rao giảng Tin Lành, chứ không làm người khác tin Chúa. Chỉ có Ðức Thánh Linh mới có khả năng làm điều này. Người từ khước Tin Lành không từ khước người đem tin như chúng ta, nhưng chính Ðức Chúa Trời, là Ðấng sai chúng ta. Chúa Giê-xu nói trong Lu-ca 10:16, “Ai nghe các ngươi, ấy là nghe ta; ai bỏ các ngươi, ấy là bỏ ta; còn ai bỏ ta, ấy là bỏ Ðấng đã sai ta.”
Ði ra làm chứng, chúng ta phải luôn nhớ rằng có một ngày nào đó trong tương lai, cả thế gian sẽ bị xét xử, và những ai không tin vào Chúa Giê-xu sẽ bị quăng vào lửa địa ngục. Chúa cảnh cáo, “15Quả thật, ta nói cùng các ngươi, đến ngày phán xét, thì xứ Sô-đôm và xứ Gô-mô-rơ sẽ chịu đoán phạt nhẹ hơn thành ấy.” Sự hủy hoại của hai thành này đã được ghi lại trong sách Sáng Thế Ký đoạn 19. Nếu dân chúng trong đó, là những người chưa có dịp nghe Tin Lành, còn bị trừng phạt như thế, huống chi những người đã được nghe đến Tin Lành nhưng không tin. Ngày đó họ phải trả lời thẳng với Ðức Chúa Trời tại sao họ từ chối Ngài.
Hậu quả tối ư đen tối này càng khiến chúng ta cố gắng hết lòng đem Tin Lành đến người khác một cách cẩn thận, không để những sự ích kỷ, lỗi lầm của chúng ta làm họ từ chối Ðức Chúa Trời.
Mục Sư Ðỗ Lê Minh